QUÊ HƯƠNG


Đất học Hương Sơn - truyền thống khoa cử và cốt cách con người

Đất học Hương Sơn - truyền thống khoa cử và cốt cách con người Không ở đâu như ở Việt Nam này, mỗi một địa danh, mỗi một tên làng, tên xóm, mỗi một con đường… sau hàng ngàn năm lịch sử, đặc biệt, trải qua hai cuộc kháng chiến thần thánh chống giặc ngoại xâm trong thế kỷ 20, đều trở thành huyền thoại. Mỗi một gia đình, mỗi một dòng họ, mỗi một cộng đồng người, cho đến cả một dân tộc, trải qua bao thăng trầm của lịch sử… đã hình thành nên truyền thống của riêng mình, có một không hai. Người Hà Tĩnh cũng vậy, dù đi đến đâu cũng được coi là những con người của một vùng đất học, vùng đất của truyền thống học hành và khoa cử. Đã có, dù không nhiều lắm, một số các công trình nghiên cứu về "đạo học" ở vùng đất vốn được coi là "địa linh nhân kiệt" này. Nhưng riêng với huyện Hương Sơn thì có thể nói, đây vẫn là một khoảng trống cho giới nghiên cứu. Gần đây, chúng tôi có được tham gia hội thảo về một đề tài khoa học do nhà giáo Thái Huấn, hiệu trưởng trường THPT Lê Hữu Trác 2 chủ trì: "Truyền thống hiếu học của con em các xã vùng 2 huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh". Dù chỉ là gần vài trăm trang tư liệu, phạm vi nghiên cứu chỉ trong khuôn khổ 6/32 xã của huyện Hương Sơn, nhưng bằng một phương pháp tiếp cận khoa học, với nhiều tư liệu quý được sưu tầm, xử lý công phu cùng với phương pháp thể hiện, bố cục mạch lạc, cũng đã góp phần quan trọng, từng bước lấp đầy một khoảng trống mà giới khoa học còn bỏ ngỏ. Bài viết này, trong khuôn khổ tham luận tại hội thảo về "Truyền thống hiếu học của con em vùng 2, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh" chỉ là cách nhìn nhận vấn đề từ một góc độ khác, nhằm bổ sung, hoàn thiện, góp phần tăng thêm ý nghĩa khi đề tài được công bố và đem áp dụng vào thực tiễn. Và cũng chính vì vậy, nó cũng chỉ mang ý nghĩa "bàn" và "luận". Tại sao cả một đất nước rộng lớn với hàng chục triệu dân, hàng trăm dòng họ, hơn 50 tộc người với vô số các địa danh, tên đất, tên làng mà khi nói đến việc học hành, khoa cử, thì có nhiều cái tên không thể không nhớ tới: Kinh Bắc, cố đô hay xứ Nghệ…? Các nhà nghiên cứu đã từng đề cập đến những nguyên nhân, mà cũng chính là động lực để các thế hệ, các dòng họ, từng gia đình khuyến khích, nuôi dưỡng con em học hành đỗ đạt. Đề tài của thầy Thái Huấn và các cộng sự thực hiện cũng đã nhìn nhận khá toàn diện đến nội dung này. Một vùng đất nghèo, thiên nhiên khắc nghiệt, người ta khuyến khích con em học hành đỗ đạt, để làm quan, thoát ra khỏi đói nghèo. Đó cũng là một thực tế. Một vùng đất "khát chữ", "đói chữ". Điều này, dẫu là tình trạng chung của cả một đất nước, một dân tộc với hàng ngàn năm bị đô hộ, mà kẻ đô hộ thì luôn tìm cách ngu dân để dễ cai trị, thì Hương Sơn, hay các xã vùng 2 cũng không là ngoại lệ. Vai trò chủ thể của các dòng họ trong việc hình thành nên truyền thống hiếu học, đây cũng là nguyên nhân mà phải tiếp tục đào sâu nghiên cứu mới có thể hiểu một cách toàn diện. Vậy còn những nguyên nhân nào khác, những nguyên nhân tạo ra truyền thống học hành, khoa cử của ngững vùng đất, những cộng đồng người? Một vài truyền thuyết, giai thoại dưới đây có thể giúp chúng ta hiểu thêm được điều gì chăng? Tổng Hữu Bằng xưa, nay là xã Sơn Bằng, thuộc huyện Hương Sơn, các thế hệ, các dòng họ vẫn còn lưu truyền những câu chuyện nhuốm đậm màu sắc thần bí mà cũng rất nhân văn. Chuyện rằng, đã xưa lắm rồi, rất xưa, đất Hữu Bằng cũng đã có tiếng về học hành, khoa bảng. Trong vùng, có 2 dòng họ nổi tiếng có nhiều người đỗ đạt, làm quan, đó là họ Nguyễn và họ Đào. Và cũng thật dễ hiểu, sau luỹ tre làng của nông thôn Việt Nam thời ấy, hai dòng họ này cũng rất "kình địch" với nhau. Ngày nọ, sau lễ tế thần tại đình làng, các vị chức sắc cùng dân làng ngồi lại chia nhau đồ tế lễ. Ông Thủ chỉ làng họ Nguyễn vốn chẳng ưa gì cụ Cử họ Đào. Vậy nhưng, người có chức sắc, người có khoa bảng lại cùng ngồi một chiếu. Vậy là ông Thủ chỉ mới tìm cách "chơi khăm" cụ Cử. Miếng thủ lợn trên cái nia trải lá chuối, nhân khi cụ Cử ra ngoài, được ông Thủ chỉ nhét vào trong tráp của của cụ Cử. Mất thịt, mà lại là miếng thịt thủ, vậy là khám xét. Đương nhiên là ông Cử bị mất mặt trước dân làng với nỗi oan kêu trời không thấu. Oan khuất rồi thù hận, ông Cử họ Đào mới ra đền Nhà Ông, Nhà Bà (trên bàu Yên Nghĩa, chỗ sâu nhất, thuộc xóm Thanh Uyên, gọi là Vực, hai bên Vực là hai ngôi đền, gọi là đền Nhà Ông và đền Nhà Bà), lấy một tảng đá to, khắc lên đôi câu đối: Ngật ngật song đài thiên cổ miếu Trầm trầm phiến thạch ức niên bi Tạm dịch: Sừng sững hai ngôi miếu (tồn tại đến) nghìn năm Tảng đá nặng này (như là) nỗi buồn vạn kiếp Xong, ông thả tảng đá có khắc đôi câu đối xuống Vực sâu với lời nguyền: "Lúc nào tảng đá này nổi lên mặt nước thì con cháu họ Nguyễn mới có người đỗ đạt". Từ đó, họ Nguyễn ở Hữu Bằng, một dòng họ nổi tiếng học hành và khoa bảng, đến mấy thế hệ sau, không còn người đỗ đạt. Khi ông Cử họ Đào chết, dân làng xây miếu thờ ông. Miếu này ngày nay vẫn còn, gọi là miếu Khoa Đường (tại xóm Thanh Uyên, xã Sơn Bằng). Dân làng đến hôm nay, kể cả người họ Nguyễn cũng như các dòng họ khác, cứ mỗi lần con cháu đi thi (đại học, tốt nghiệp THPT, tuyển sinh vào THPT…) lại đến miếu Khoa Đường thắp hương, cầu khấn cho con cháu đỗ đạt. Câu chuyện này nói lên điều gì? Quay lại với vấn đề: nguồn gốc, nguyên nhân hình thành nên truyền thống học hành, khoa bảng của một vùng đất. Người xưa có câu: tâm có sáng thì văn mới hay. Thi cử ngày xưa là thi về văn chương. Những kẻ sống thất tâm, thất đức thì không thể (và không nên) đỗ đạt, lại càng không thể và không nên làm quan. Cái triết lý "có tu nhân, tích đức thì mới thành chính quả" của đạo Phật, có lẽ là chỗ này. Phải chăng, ở những vùng đất học, xưa nay, đều có một điểm chung là con người sống trung thực, thẳng thắn, có đạo lý, lấy cái nhân cái nghĩa làm đầu? Một vùng đất nhỏ bé này mà trong lịch sử đã từng là nơi khởi nguồn, là thành luỹ của 2 cuộc khởi nghĩa nông dân. Điều đó cũng đáng để chúng ta suy ngẫm. Ngày xưa, trường thi, nơi các sĩ tử đến để tranh tài là nơi trang nghiêm. Vị quan giám sát trường thi trước khi gọi tên các sĩ tử vào trường thi thì mời những các thế lực siêu nhiên khác, muốn báo ân, báo oán vào trước. Quan niệm thời ấy cho rằng, ngoài đời ai gây ra oán, ai làm nên ân thì trường thi cũng là nơi để trả thù hay báo đáp. (Báo ân tiên nhập, báo oán thứ nhập, sĩ tử thứ thứ nhập - ngày nay, câu này được hiểu như là để chỉ sự ngỗ nghịch, ma mãnh của học trò: nhất quỷ, nhì ma, thứ ba học trò. Đây là cách hiểu không chính xác, xét về nguồn gốc). Kẻ ngoài đời độc ác, thủ đoạn, gây nên oán thù, thì vào trường thi ma đưa lối, quỷ dẫn đường, không phạm huý khi dùng từ thì cũng phạm luật khi gieo vần, đặt câu. Còn người trượng nghĩa, sống giữa đời làm được nhiều điều nhân đức thì sẽ được phù trợ để có được sự minh mẫn, sáng láng khi làm bài và đỗ đạt. Vậy là, ngay cả những nghi lễ chính thức trong thi cử của thời phong kiến cũng đã phản ánh, in sâu một triết lý: đỗ đạt, khoa bảng, thành danh luôn gắn với đạo đức làm người. Điều đó cũng khẳng định lại một lần nữa, truyền thống học hành, khoa cử của một vùng đất là không thể tách rời truyền thống đạo đức, truyền thống làm người. Ngày nay, chúng ta biết nhiều đến việc dạy học tại nhà bằng cách mời gia sư. Người thầy đi dạy như là một cách để kiếm thêm thu nhập đảm bảo cho cuộc sống của mình. Nhưng một thời, cũng chỉ mới cách 40, 50 năm lại đây thôi, thì không như vậy. Nhiều gia đình ở Sơn Bằng hay Sơn Hoà, Sơn Thịnh… thời đó đã "nuôi" thầy tại nhà. Thầy ở trong nhà không phải trả tiền ăn, tiền ở, nhưng bù lại, những khi rảnh rỗi, thầy dạy thêm cho đám trẻ học chữ. Thầy không đòi hỏi gì mà nhà chủ cũng chẳng có điều kiện gì; ngược lại, ai mời được thầy về nhà ở thì cảm thấy rất vinh dự. Nhà chủ và thầy giáo đối xử với nhau cũng rất trân trọng, như là khách quý. Thầy đi trường thì chào thầy đi; thầy về nhà thì chào thầy về. Dẫu nhà nông đầu tắt mặt tối cả ngày nhưng không bao giờ để thầy đụng đến cái chổi quét nhà. Đến bữa cơm, dù rất đạm bạc, chỉ là rau dưa, đĩa trứng kho hay cá tép đồng… nhưng vẫn được dọn lên trong mâm thau, đặt lên bộ bàn ghế ở giữa gian chính, nhà ngoài. Được phép ngồi ăn cùng mâm cơm với thầy là ông chủ nhà hoặc người cao tuổi, những người khác thì ngồi ăn trong nhà bếp, nơi bình thường các thành viên trong gia đình vẫn cùng ngồi ăn. Cái cách "bắc cầu kiều" trong câu ngạn ngữ xưa của người dân vùng đất học thật đáng trân trọng. Nhưng điều đáng nói ở đây là, họ, chính họ là người tạo nên truyền thống, tạc nên chân lý giản đơn: có yêu cái chữ, có trọng cái chữ thì mới có chữ; có yêu thầy, có trọng thầy thì mới có thể làm ông thầy. Đặc trưng này là phổ quát, là đạo lý của cả một dân tộc, nhưng cũng là rất riêng cho những cộng đồng, những dòng họ nổi tiếng có truyền thống học hành khoa cử trên đất Hương Sơn. Quay lại với những nguyên nhân tạo nên truyền thống học hành khoa cử của những vùng đất, của những dòng họ. Phải chăng là vì quý chữ, khát chữ mà tôn vinh đạo học? Vì mơ ước tri thức mà trọng ông thầy? Vì cầu mong khoa bảng mà tu dưỡng tâm đức? Tầng lớp trí thức thời xưa được gọi là hiền tài. "Hiền" và "tài". Học hành chữ nghĩa không đồng hành cùng cái ác. Đỗ đạt, khoa bảng không thể tách rời đạo lý làm người. Vậy là truyền thống hiếu học, luôn gắn liền với truyền thống nhân nghĩa của một vùng đất, một dòng họ hay một cộng đồng người... Con người Hương Sơn, với tình yêu quê hương, đất nước tha thiết, với bản chất trượng nghĩa ngấm sâu vào trong máu thịt, niềm tự tôn về truyền thống hiếu học thấm đẫm tận cùng mọi ngõ ngách của mỗi làng quê, sẽ mãi mãi là niềm tự hào của các thế hệ hôm nay và mai sau...

------------------------------------------------------------------------------------------------------------
Quê hương tôi có con sông xanh biếc 
Nước gương trong soi tóc những hàng tre 
Tâm hồn tôi là một buổi trưa hè 
Toả nắng xuống dòng sông ấm áp.

........Chắc các bạn cũng biết đây là 1 đoạn trích trong bài "Nhớ con sông quê hương"-Tế Hanh,và cái cảm nhận ban đầu của tôi khi đọc đoạn thơ đó là:Sao quê hương trong thơ của Tế Hanh nó đẹp thế....Thoảng phút chốc tôi chợt nhớ về quê hương mình một vùng quê nghèo ven biển đó là xã Giao Nhân,xã Giao Nhân nơi tôi sinh ra và lớn lên,nơi tôi gắn bó cuộc đời học sinh tươi đẹp ở đó.Bây giờ tôi đã là một sinh viên học ở xa quê,và tôi không khỏi bồi hồi xúc động khi 1h đêm lại gõ từng phím trắng máy vi tính viết từng dòng cảm xúc của mình về quê hương.
........Đêm tối tĩnh mịch càng làm tôi thấy cô đơn lạnh lẽo,điều duy nhất có thể làm tôi đỡ cô đơn buồn chán lúc này có lẽ là nghĩ lại nhưng kỉ niệm ngày xưa,nghĩ về quê hương Giao Nhân.Có thể bạn cho tôi hơi nực cười phải không?Tôi có thể khẳng định rằng ko hề nực cười 1 chút nào cả đâu.Bạn đã bao giờ xa quê hương chưa?Bạn đã có bao giờ nghĩ rằng một ngày nào đó mình sẽ rời xa cái mảnh đất đã nuôi nấng tâm hồn trẻ thơ hồn nhiên của chính bản thân chưa?......Chắc hẳn đó là một câu hỏi khó có thể có 1 câu trả lời chính xác được đúng không.Những câu hỏi tôi muốn đặt ra cho các bạn còn rất là nhiều, nhưng thôi tôi không muốn mình sâu vào vấn đề mà có lẽ trong đời người ai cũng phải ít nhất trải qua 1 lần,vấn đề tôi muốn chia sẻ với các bạn lúc này đó là cảm xúc của tôi hiện tại,cái cảm xúc của 1 cậu sinh viên xa quê hương đang nghĩ về quê hương của mình....
ảnh minh họa
..............Khi nghĩ về Giao Nhân quê tôi,tôi tự hỏi mình rằng :Giao Nhân thì có gì đẹp cơ chứ?Có gì để mình phải lưu luyến,phải yêu phải nhớ nó chứ?Và có lẽ đúng như thế thật các bạn ạ,nằm giữa: TT Ngô Đồng, Hoành Sơn,Giao Châu,Giao Hải,dọc theo dòng sông Cái hiền hòa ,Giao nhân có 1 vị trí địa lí khá lí tưởng cho việc phát triển kinh tế,văn hóa.Mặc dù vậy so với các xã khác trong huyện thì Giao Nhân vẫn là một xã nghèo,có diện tích không lớn lắm,dân số cũng thuộc dạng trung bình,dân trí không cao....có thể nói Giao Nhân không gây 1 ấn tượng nào để tôi phải nhớ cả.Thật thất vọng phải không?,nhưng rồi khi nghĩ lại 1 thời cứ sớm sớm chiều chiều đạp xe đi học,ngày ngày chạy nhảy rong chơi Ion ton trên con đường đá sỏi gồ ghề nay đã đươc trải bê tông phẳng lì hay dải nhựa rắn chắc quen thuộc,và khi không còn đạp xe trên con đường đó thì dường như tôi cảm thấy thiếu thốn 1 cái gì đó mà hình như chẳng bao giờ tôi nghĩ về nó.Trong tâm trí tôi những con đường,cây cầu,quán chè,quán bia dựng san sát nhau dưới chân cầu chợ Bể đã tạo nên 1 nét đẹp riêng cho Giao Nhân,1 sự đăc trưng có thể nói là 1 hình ảnh để mọi người biết đến Giao Nhân nhiều hơn.Bước đến ngã tư cầu chợ Bể các bạn có thể đưa ra cho mình những lựa chọn đã được sắp đặt sẵn trong đầu các bạn,các bạn học sinh có thể sang cầu để bước vào mái trường TTGDTX Giao Thủy,nơi đây là nơi tạo ra nhưng con người,những chủ nhân tương lai của đất nước,và ngay sát chân cầu là UBND xã cơ quan lãnh đạo chính của xã,đi tiếp về phía hướng Giao Hải bạn có thể ra được biển Giao Hải vựa thủy sản chính của huyện,nơi ngày ngày có những con người đang đổ từng giọt mồ hôi mặn chát kiếm từng đồng tiền, bát gạo nuôi nâng chúng ta lên người.Đi về hướng Giao Châu bạn có thể tới được chợ Bể 1 địa danh khá nổi tiếng ở Giao Nhân,nơi giao lưu buôn bán của nhân dân trong xã cũng như ngoài xã,chợ họp vào các ngày 4 8 14 18 24 28 âm hàng tháng,chính nơi đây bạn có thể tìm thấy được hình ảnh quê hương thân thương giản dị của các bà,các cô,các chị í ới nhau mua từng bó rau,miếng thịt... mang lại những bữa ăn ngon trong gia đình chúng ta.Đi xa hơn về phía Giao Châu bạn có thể bắt gặp đình chùa Duyên Thọ,1 di tích lịch sử đã được nhà nước công nhận,và cứ 4 năm chùa mới tổ chức lễ hội 1 lần,nơi đây là nơi bạn tìm về với cội nguồn,tìm lại sự bình yên phẳng lăng trong tâm hồn mình.Đi về phía xã Hoành Sơn thì mở ra trước mắt bạn là cánh đồng lúa phì nhiêu thẳng cánh cò bay cùng với 1 trạm biến áp khá lớn cung cấp điện cho 1 số xã trong huyện,nếu mọi người có thể suy nghĩ lâu hơn 1 chút thi đó sẽ là 1 sự kết hợp diệu kì giữa tạo hóa và con người,một công trình hiện đại giữa 1 cái thuần túy nông thôn,nó cho chúng ta thấy răng quê hương ta đang ngày ngày thay đổi giàu hơn,đẹp hơn.Hướng về Ngô Đồng bạn có thể được chiêm ngưỡng nhà thờ Ngưỡng Nhân cổ kính,nơi bà con giáo dân tụ họp hàng ngày để cầu phước lành cho mọi người......
ảnh minh họa
............Một đặc điểm nữa đó là con người Giao Nhân,con người Giao Nhân có gì ư?Đó là tính cách,họ sống rất hòa nhã vui vẻ,mến khách,biết yêu thương mọi người,và có lẽ rằng đây chính là điều đã làm thay đổi cuộc sống của tôi,tôi yêu tất cả mọi người ở quê tôi,tôi yêu từng tiêng gọi của ông, bà,bố,mẹ,....đặc biệt là các em của tôi,thật hạnh phúc biết bao khi vừa bước chân về lại được mọi người gọi,mọi người trêu,rùi tiếng "A" của các em tôi,lắm lúc tôi rất ghét họ vì họ thường trêu tôi quá trớn,nhưng bây giờ thì khác rùi,tôi mong muốn được bắt gặp những hình ảnh đo hàng ngày.Ôi quê hương,tại sao tim tôi lại đập mạnh thế nhỉ??Người tôi tại sao cứ nâng nâng 1 cách khó hiểu thế nhỉ?.......Ngoài ra,người dân quê tôi còn rất đam mê thể dục thể thao nữa,bạn có thể bắt gặp những hình ảnh những chú những bác hò nhau khi đánh bóng chuyền và cầu lông..... này khi đi qua UBND xã lúc chiều tối.Bây giờ khi đi qua Giao Nhân bạn sẽ cảm thấy được Giao Nhân đang có nhưng sự thay đổi rõ rệt,đường xá đã được mở rộng hơn,đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt hơn hơn,cuộc sống vui vẻ ấm no hạnh phúc hơn......
.................Và bây giờ tôi có thể dám khẳng định với các bạn rằng tôi đang rất tự hào về quê hương,rất yêu quí quê hương Giao Nhân của mình,và thật hạnh phúc biết bao khi mình là một người con của Giao Nhân.Mặc dù rằng quê hương tôi không được đẹp như trong thơ của Tế Hanh:
Quê hương tôi có con sông xanh biếc 
Nước gương trong soi tóc những hàng tre 
Tâm hồn tôi là một buổi trưa hè 
Toả nắng xuống dòng sông ấm áp.

Chẳng biết nước có giữ ngày giữ tháng 
Giữ bao nhiêu kỷ niệm giữa dòng trôi 
Hỡi con sông đã tắm cả đời tôi 
Tôi giữ mãi mối tình mới mẻ 

Sông của quê hương, sông của tuổi trẻ 
Sông của miền Nam nước Việt thân yêu 
Khi bờ tre ríu rít tiếng chim kêu 
Khi mặt nước chập chờn con cá nhảy. 

Bạn bè tôi túm năm tụm bảy 
Bầy chim non bay lượn trên sông 
Tôi dang tay ôm nước vào lòng 
Sông mở nước ôm tôi vào dạ. 

Chúng tôi lớn lên mỗi người một ngả 
Kẻ sớm khuya chài lưới bên sông 
Kẻ cuốc cày mưa nắng ngoài đồng 
Tôi cầm súng xa nhà đi kháng chiến. 

Nhưng lòng tôi như mưa nguồn gió biển 
Vẫn trở về lưu luyến bên sông... 
Tôi hôm nay sống trong lòng miền Bắc 
Sờ lên ngực nghe trái tim thầm nhắc. 

Hai tiếng thiêng liêng hai tiếng miền Nam 
Tôi nhớ không nguôi ánh nắng màu vàng 
Tôi quên sao được sắc trời xanh biếc 
Tôi nhớ cả những người không quen biết. 

Có những trưa tôi đứng dưới hàng cây 
Bỗng nghe dâng cả một nỗi tràn đầy 
Hình ảnh con sông quê mát rượi 
Lai láng chảy lòng tôi như suối tưới. 

Quê hương ơi, lòng tôi cũng như sông 
Tình Bắc Nam chung chảy một dòng 
Không ghềnh thác nào ngăn cản được 
Tôi sẽ đến nơi tôi hằng mong ước. 

Tôi sẽ về sông nước của quê hương 
Tôi sẽ về sông nước của tình thương. 

BÀI ĐĂNG PHỔ BIẾN