CHUYÊN ĐỀ



-----------------------------------------------------------------------------------------------------------




--------------------------------------------------------------------------------



MÔ HÌNH TRUYỀN GIÁO LÝ TƯỞNG
Lm .G. Đỗ Trung Thành, O.P



Trong bầu khí hân hoan của Năm Thánh 2010 của Giáo hội Việt Nam, kỷ niêm 350 năm thành lập hai Giáo phận đầu tiên – Đàng Trong và Đàng Ngoài và 50 năm thành lập Hàng Giáo phẩm Việt Nam, bên lề những sự kiện, những chương trình hoạt động, lễ hội được tổ chức từ Bắc vào Nam trong suốt năm Thánh, thiết nghĩ đây cũng là thời gian, là dịp chính để chúng ta cùng nhìn lại một chặng đường đã qua với những bước đi thăng trầm của Giáo hội kể từ những ngày đầu hạt giống Tin Mừng được gieo vãi trên mãnh đất Việt Nam thân yêu cho đến hôm nay.
Nếu lấy cột mốc khởi điểm 1533 với sự hiện diện của một giáo sĩ Tây dương tên là I-Ni-Khu đặt chân lên mảnh đất Việt Nam, Giáo hội Việt Nam đã trãi qua quãng thời agian gần 500 năm để hạt giống Tin Mừng được gieo trồng và trổ sinh bông hạt. Một quãng thời gian, tuy không dài, nhưng cũng đủ để chúng ta cùng nhìn lại hành trình Truyền giáo của các giáo sĩ phương Tây, và sau đó, là của Giáo hội Việt Nam. Đã có những thành quả nào đáng trân trọng để tri ân và để phát huy, hay đã có những hạn chế, trở ngại nào để khắc phục và canh tân; hay nói cách khác, hạt giống Tin Mừng đã thật sự hóa thân vào nền văn hóa và con người Việt Nam hay chưa, nếu có, thì “hình thù” như thế nào ?
Ngày nay, khi nhìn vào tỷ lệ người Công giáo trên số dân Việt Nam, gần 8% trên 86 triệu dân, một tỷ lệ khá khiêm tốn, khá nhỏ bé, thiểu số, có lẽ, mỗi người chúng ta không thể không có những mối băn khoăn nghi ngại cùng với nhiều nghi vấn… điều này rất đáng cho mỗi người chúng ta quan tâm và suy nghĩ? Do đo, tìm kiếm MỘT MÔ HÌNH TRUYỀN GIÁO thích hợp với bối cảnh Việt Nam hôm nay là điều cần phải nghĩ đến trước tiên.
Ngày 10-11-1659, khi cử hai Đại diện Tông tòa đầu tiên sang Đàng Trong và Đàng Ngoài, Bộ Truyền giáo đã chỉ thị rõ rệt: “Chư huynh đừng bao giờ muốn sửa đổi, đừng tìm lý lẽ để buộc dân chúng sửa đổi những phép xã giao, tập tục, phong hoá của họ, trừ khi nó hiển nhiên mâu thuẫn với đạo thánh và luân lý: có gì vô lý bỉ ổi hơn mang theo cả nước Pháp, Tây Ban Nha, nước Ý, hay bất cứ nước nào khác bên trời Âu sang cho dân Á đông chăng? Không phải mang thứ ấy đến cho họ, mà là mang chân lý đức tin, một chân lý không loại trừ nghi lễ và tập tục của bất cứ một dân tộc nào, cũng đừng xúc phạm đến những nghi lễ và tập tục ấy, miễn là chúng không xấu; ngược lại, chân lý đức tin muốn cho người ta bảo tồn và duy trì chúng là đàng khác. “Có thể nói, tự nhiên ai ai cũng cho những cái của mình và nhất là của quê hương xứ sở mình là hơn cả, và yêu mến những báu vật đó hơn những cái của ngoại lai: nguyên việc sửa chữa những quốc lệ của người ta cũng đủ gây lòng oán hận sâu đậm rồi, nhất là những tập tục cổ đã có lâu đời mà các tiền nhân vẫn có thể nhớ tông tích; càng tệ hơn nữa nếu chư huynh huỷ bỏ những tập tục đó để đem phong tục của quý quốc mà thay thế vào! Vậy đừng bao giờ nên đem những tục lệ Âu châu đối lập với tục lệ của các dân tộc ấy, trái lại hãy hết lòng sống cho quen với tập tục của họ.
Nội dung của chỉ thị của Bộ Truyền giáo vừa được nêu trên, có thể nói, đã được triển khai và áp dụng một cách tuyệt vời nơi chân dung của vị truyền giáo, được không những các thành phần trong Giáo hội ngưỡng mộ mà cả những người lương dân trí thức cũng tỏ lòng kính trọng cuộc đời và sự nghiệp của ngài, đó là linh mục Leopold Michel Cadière (1986 -1955). Phương thế và cách thức truyền giáo của ngài có thể nói là:  “MỘT MÔ HÌNH TRUYỀN GIÁO LÝ TƯỞNG”, mà trong bài tham luận của mình, Đức giám mục Phao-lô Nguyễn Thái Hợp đã nói:“Trong suốt 350 năm rao giảng Tin Mừng tại Việt Nam…, phải thành thật công nhận rằng kinh nghiệm loan bao Tin Mừng của cha Cadière là một trường hợp độc đáo và khá hiếm hoi tại Việt Nam”.
1. Đôi nét về thân thế và sự nghiệp của linh mục Leopold Cadière
Linh mục Cadière sinh ngày 14-2-1869 ở gần Aix-en Provence, học chủng viện của Hội thừa sai Paris và được truyền chức linh mục ngày 24-9-1892. Sau ngày lãnh tác vụ linh mục một tháng, tháng 10 năm 1892, cha được cử sang Việt Nam và đến Huế ngày 23-12-1892. Cha đã được giao coi sóc nhiều giáo xứ như Tam Toà (nay thuộc giáo phận Vinh), Cự Lạc, Cổ Vưu, Di Loan… và tham gia giảng dạy tại tiểu chủng viện An Ninh, trường Pellerin, đại chủng viện Huế.
Bên cạnh những hoạt động Mục vụ, cha còn để lại một sự nghiệp khoa học rất đáng nể., với khoảng 250 công trình khảo cứu về ngôn ngữ, phong tục tập quán, tín ngưỡng, tôn giáo của người Việt. Trong đó đáng kể là Ngữ âm học Việt Nam (1902), Di tích lịch sử Quảng Bình (1903), Lũy Thày Đồng Hới (1906), Tín ngưỡng và thực hành tôn giáo của người Việt (3 tập)… đủ mọi lãnh vực (cả thực vật và động vật học).
Cha sáng lập ra tờ Hội đô thành hiếu cổ (Association des Amis du Vieux Huê) được coi là tạp chí khoa học có giá trị nhất ở Đông Dương lúc bấy giờ. Cha giữ rất nhiều chức danh trong các hội khoa học như Hội địa lý Hà Nội, Hội nghiên cứu Đông Dương Sài Gòn, Hội thuần dưỡng ở Paris, Viện sĩ Viện thông tấn Viện hàn lâm Aix, Viện hàn lâm khoa học thuộc địa và Bảo tàng khoa học Đông Dương. Cha cũng tham gia hội đồng khoa học Đông Dương và Viện nghiên cứu nhân văn Đông Dương, đặc biệt gắn bó với Viện Viễn đông bác cổ Pháp và trở thành giám đốc đầu tiên của Viện Louis Finot.
Sau biến cố Nhật đảo chính Pháp năm 1945, cha bị giam giữ 15 tháng ở Huế. Năm 1953, chính quyền đưa cha về Quảng Bình sang vùng quân đội Pháp quản lý. Giáo hội muốn đưa cha về Pháp để nghỉ dưỡng tuổi già nhưng cha xin được ở lại Việt Nam và qua đời tại Huế ngày 6-7-1955. Cha được an táng tại nghĩa trang Phú Xuân và nay nằm trong khuôn viên đại chủng viện Huế.

2. Một Hành trang học thuật vững chắc và Một tấm lòng cho sứ vụ được nuôi dưỡng
- Từ khi còn là một Học sinh trường Trung học Aix, trong các loại sách Cadière thích đọc, ngoài các truyện về du lịch và thám hiểm, ng ài đặc biệt chú ý đến các tập san về truyền giáo, cụ thể như tập san định kỳ của Thánh Bộ Truyền Giáo và tập san về các trẻ mồ côi. Tốt nghiệp trung học, Cadière đã gia nhập chủng viện Xuân Bích ở Aix, ở đây, cậu được học tập và trao dồi nhiều kiến thức về khoa học đạo cũng như khoa học đời với những giáo sư uyên bác một cách nghiêm túc và căn bản. Đó là hành trang quan trọng cho ngài sau này trên hành trình truyền giáo sau này.
Trong nhật ký của cha có nhan đề là “Hồi ký của một cụ già được Việt Nam hoá” (Souvenirs d’un vieil annamitsant, viết tại Đông Dương ngày 13 tháng 7 năm 1944), cha Cadière đã viết rằng: “Khi tôi còn là một thầy đại chủng sinh trẻ bắt đầu học các môn Triết lý và Thần học ở Đại Chủng viện Aix thì cũng là lúc mà các linh mục Xuân Bích danh tiếng, các linh mục Biển Đức lỗi lạc cho phổ biến những nghiên cứu của họ về Kinh Thánh, về nguồn gốc Đạo Thiên Chúa. Dưới sự hướng dẫn của các giáo sư thông thái, tôi đọc ngấu nghiến những tác phẩm này. Và tôi cũng có ý muốn giống như họ, một ngày nào đó.
- Tinh thần yêu thích truyền giáo mà Cadière đã ấp và nuôi dưỡng đã dẫn đưa ngài tìm đến với Hội Thừa Sai Paris. Ngày 6/6/1890, ngài gia nhập chủng viện của Hội ở đường Rue du Bac). Ngài được thụ phong linh mục ngày 24 tháng 9 năm 1892. Và, chẳng lâu sau đó, ưóc mơ của ngài đã thành hiện thực, ngài được gia nhập cánh đồng truyền giáo ở Việt Nam ngày 26 tháng 10 năm 1892, chỉ vỏn vẹn một tháng sau ngày thụ phong linh mục. Chàng linh mục trẻ Cadière với tuổi đời mới tròn 23, ngài đã lên đường đến xứ sở vừa xa xôi vừa khác lạ với quê hương của ngài về mọi thứ; thế nhưng, với một tấm lòng dấn thân, vui tươi và hăng hái, ngài đã khẳng định được mình trước những khó khăn và vất vả.
Có thể nói, ngọn lửa truyền giáo vẫn hừng hực cháy trong tâm khảm của ngài để rồi khi đặt chân lên mảnh đất Việt Nam ngài đã không ngần ngại khó khăn và gian khổ bắt đầu dấn thân vào việc tìm hiểu, nghiên cứu tất cả những gì liên quan đến xứ sở mới lạ này. Bởi vì, ngài cũng ý thức sứ vụ truyền giáo của ngài không thể hoàn thành tốt nếu không hiểu con người và xứ sở ngài được gởi đến để gieo trồng hạt giống Tin Mừng.
3. Học hiểu xứ sở và con người được sai đến vì sứ vụ
Với định hướng nền tảng “Ngôi Lời Nhập Thể” vào lòng đời và trở nên “con người với con người”; cùng với nguyên tắc căn bản mà ngài đã học được nơi tinh thần truyền giáo của thánh tông đồ Phao-lô “Do-thái với Do-thái, Hy-lạp với Hy-lạp”, cha Cadière đã chọn lựa và quyết tâm“trở nên người Việt với người Việt”.  Để có thể thực hiện điều mình đã chọn lựa và quyết tâm của ngài trở thành hiện thực, việc đầu tiên ngài đã dấn thân là học tiếng Việt để hiểu con người Việt.
Vào giai đoạn đó, “đại đa số các thừa sai cao niên rất thông thạo tiếng Pháp. Nhưng các vị chỉ biết tiếng qua loa tiếng Việt trong thực hành mà thôi, chứ chẳng bao giờ nghĩ đến chuyện học cấu trúc của nó”. Có những thừa sai chỉ hiểu sơ sơ những câu nói thông thường, nhưng không thể nói tiếng Việt, nên luôn phải có thông dịch viên.
Cho nên, khi đến Đà Nẵng vào năm 1892, cha Léopold Cadière đã kiên nhẫn và để tâm nghiên cứu và học tiếng Việt. Đối với cha, việc học tiếng Việt, không những làm sao nói sõi, mà còn có thể suy tư bằng tiếng Việt và thấu hiểu “cái hồn” của nó. Chính vì vậy, cha quyết định học tiếng Việt một cách nghiêm túc, nghiên cứu kỹ lưỡng cách phát âm, cấu trúc, ngữ pháp, ngữ nghĩa và tinh thần của tiếng Việt một cách khách quan và khoa học nên không vướng vào những lỗi lầm định kiến sai trái của người Châu âu thường rơi vào”. Sau này, ngài kể lại trong hồi ký: “để học một ngôn ngữ, không phải chỉ là vấn đề của thanh quản và lỗ tai, không phải chỉ là vấn đề của trí nhớ, nhưng còn là và nhất là vấn đề của cái đầu, trong trường hợp hai ngôn ngữ rất khác nhau như tiếng Pháp và tiếng Việt Nam. Không phải chỉ là nói được như người Việt Nam nhưng còn là suy nghĩ như họ.

Để hiểu về xứ sở Việt Nam, cha Cadière cũng đã sớm nghiên cứu về lịch sử Việt Nam. Nghiên cứu đầu tiên của ngài là về nguồn gốc của Lịch sử Việt Nam. Nghiên cứu này được ấn hành năm 1904 với sự cộng tác của Paul Pelliot. Sang năm 1905, ngài đã hoàn thành một “Niên Biểu các triều đại Việt Nam”.
Sau khi đã nghiên cứu và am hiểu tiếng Việt, cha Cadeire đã tiếp tục tìm hiểu qua các lãnh vực khảo cứu về Tín ngưỡng dân gian Việt Nam với những thực hành tôn giáo hay nghi thức thần bí của người Việt tại nơi ngài quản nhiệm, qua các truyện cổ, tục ngữ và những bài hát dân gian, những tin tưởng liên quan đến thế giới siêu nhiên, đến cây cỏ, đến muông thú và những nơi linh thiêng. Vào năm 1901, trong tập san BEFEO đầu tiên, ngài đã cho in bài nghiên cứu về “Các tín ngưỡng và ngạn ngữ ở thung lũng Nguồn Son”.
Mặc dù là một người châu Âu, một thừa sai phương Tây, nhưng nơi cha, người ta thấy nói ngài một thái độ tôn trọng và với cái nhìn khách quan, chứ không gay gắt chỉ trích, phê phán, kết án hay chế nhạo như đã từng xảy ra nơi một số thừa sai, dù cho các hình thức thờ bái mang dáng vẻ ma thuật hay các tập tục có vẻ “ấu trĩ” của tôn giáo bình dân. Ngài cần mẫn đi điền dã, tỉ mỉ ghi chép, kiên nhẫn quan sát và nhận ra nhiều sắc thái, nhiều cấp độ biểu lộ niềm tin tôn giáo ở Việt Nam. Cha trân trọng tất cả những hình thức biểu lộ niềm tin tôn giáo rất đa dạng ấy. Cha cố gắng tìm hiểu ý nghĩa của các tín ngưỡng này và coi chúng như một cách thế văn hóa riêng biệt để diễn tả niềm tin nơi Đấng Toàn Năng.
Trong “Chỉ dẫn thực hành cho các thừa sai” cha đã nêu lên hình ảnh rất dí dỏm khiến cho người khác dễ dàng chấp nhận: “Nhà thừa sai dấn thân vào lãnh vực nghiên cứu tôn giáo cần phải bắt chước các bác sĩ, khi đi khám bệnh luôn hỏi han bệnh nhân, kích thích lời giải thích, không bao giờ ngắt lời họ, không nói ngược lại họ, ngay cả khi họ kể lể những nỗi đau đớn tưởng tượng, hoặc sai lầm trong những chi tiết và những kết luận về tình trạng sức khỏe của mình. Nhà thừa sai không bao giờ được quên rằng những niềm tin mà người ta trình bày với ông là chân thành. Chúng biểu lộ một trong những tình cảm cao đẹp nhất của nhân loại, tình cảm tôn giáo, và dưới danh hiệu này, chúng có quyền được tôn trọng. Do đó không bao giờ được chỉ trích, chế giễu một cách ác ý”.
Với thái độ và cái nhìn tích cực ấy, trong “Triết lý dân gian Việt Nam”, cha đã đưa ra một cảm nhận rất sâu sắc: “Trong cuộc sống của người Việt Nam, chẳng một điều gì thoát khỏi ảnh hưởng của tôn giáo. Tôn giáo chiếm hữu họ ngay từ khi mở mắt chào đời, dẫn dắt họ đi suốt đường đời cho đến lúc nhắm mắt. Thậm chí, ngay cả sau khi đã ly trần, tôn giáo vẫn còn phủ bóng trên họ. Khi nhận ra nguồn cội sâu xa mà các thần linh thuộc thế giới siêu nhiên đã gieo vãi trong tâm hồn người Việt Nam, người ta không thể phủ nhận rằng dân tộc này là một dân tộc hết sức sùng đạo”.
Vào năm 1942, trong dịp kỷ niệm năm thứ 50 ngày cha đến Việt Nam, cha Cadière đã đưa ra một chứng từ xúc động về dân tộc mà cha yêu mến, một dân tộc mà ngài đã gắn bó suốt đời: “Tôi đã nghiên cứu những tín ngưỡng, những thực hành tôn giáo, những phong tục tập quán và tôi xác tín rằng người Việt Nam có quan niệm sâu sắc về tôn giáo, những tin tưởng của họ rất thuần khiết và rằng có lẽ khi họ cầu Trời, tế Trời, họ cũng đang thờ lạy một Đấng Toàn Năng mà chính tôi cũng đang thờ lạy và tôi gọi là Thiên Chúa, dân tộc Việt Nam đã nuôi dưỡng tận đáy lòng mình ánh lửa của một tôn giáo tự nhiên mà Đấng Tạo Hóa đã đặt trong tâm hồn của mọi thọ tạo có trí khôn…
Có một câu hỏi đặt ra: vì sao cha Cadière lại say sưa nghiên cứu về đất nước, con người Việt Nam? Cha đã trả lời: “Vì đã nghiên cứu và hiểu người Việt nên quả thật tôi yêu mến họ. Tôi yêu mến họ vì trí thông minh, nhạy bén trong suy nghĩ… Tôi yêu mến họ vì các đức hạnh tinh thần…Tôi yêu mến họ vì tính tình của họ … Tôi yêu mến họ vì họ khổ”.
Lòng yêu mến đó nơi cha Cadière đạt đến mức độ tuyệt vời hơn, là khi được trả tự do, trở về nước là điều rất xứng đáng với ngài, nhưng ngài đã từ chối trở về Pháp và xin được ở lại Huế, khi đó ngài đã 84 tuổi, ở lại để được yên nghỉ trên mảnh đất mà ngài hết lòng yêu thương. Ngài qua đời ngày 6 tháng 7 năm 1955. Tất cả các linh mục đã đi theo linh cữu của ngài tới nghĩa trang Đại Chủng Viện. Từ khắp nơi, người ta bày tỏ tình cảm thương tiếc và ngưỡng mộ ngài.
Người đứng đầu nhà cầm quyền Việt Nam lúc bấy giờ đã gởi điện tới Đức Cha Urrutia, Giám Mục Tông Tòa Giáo Phận Huế: “Tôi rất xúc động khi được tin cha Cadière qua đời, người mà cuộc sống đã cống hiến trọn vẹn cho xứ sở này. Những tác phẩm mà linh mục quá cố để lại trong lãnh vực xã hội và tôn giáo, cũng như trong lãnh vực văn học và ngôn ngữ học, đã nói lên tình cảm của ngài đối với dân tộc Việt Nam. Dân tộc Việt Nam sẽ giữ mãi một kỷ niệm không phai về vị học giả lỗi lạc và là người bạn lớn. Sự ra đi của người tông đồ lỗi lạc này, mà suốt cuộc đời đã dành cho đồng bào của tôi, là một mất mát lớn đối với chúng tôi. Trong giờ phút đau thương này, kính xin Đức Cha nhận nơi đây nỗi lòng thương tiếc chân thành và những lời chia buồn sâu sắc của tôi”.
4. Tâm tình tri ân, ngưỡng mộ và tiếp cận mô hình truyền giáo “Cadière”
- Tri ân và ngưỡng mộ: Cha Cadière rất xứng đáng với lòng ngưỡng mộ, yêu mến và sự ưu ái của mọi người dành cho ngài trước những tài năng xuất chúng và tấm lòng nhiệt thành của ngài … Bên cạnh những tri ân, yêu mến và ngưỡng mộ người Công giáo dành cho ngài, còn có cả anh chị em lương dân, nhất là người dân Huế, họ luôn luôn ghi nhớ những cống hiến lớn lao và tình yêu của ngài dành cho xứ Huế thân yêu.
Louis Finot là sĩ quan Pháp mà ngài đã quen khi ở Cù lạc, “thường hay nói rằng cuộc khám phá ngoạn mục nhất trong chuyến công tác đầu tiên của ông ở Đông Dương, chính là cha Cadière” (L. Malleret). Linh mục Gérard Moussay, trong bài tham luận của mình, ngài đã nói rằng, khi là Hạt trưởng ở Di Loan, gần bãi biển Cửa Tùng, người ta có thể quả quyết rằng không ai ngoài cha Cadière, đã hiểu sâu sắc não trạng và những sinh hoạt của các cộng đoàn Công giáo Việt Nam. Đặc biệt hơn nữa, bằng một cử chỉ ưu ái, Đức Thánh Cha Piô XI đã cho ấn hành tại nhà in Vatican tập sách về Gia Đình và Tôn Giáo tại Việt Nam, như một cách để xác nhận những cố gắng của cha Cadière.
Với cha Cadière, việc nỗ lực để tìm hiểu và nghiên cứu về một dân tộc trong khi truyền giáo không phải là việc tùy phụ, thích làm hay không, nhưng đó là điều kiện thiết yếu để có thể hiểu, yêu mến và sống với dân tộc đó; và, nhờ đó có thể thực hiện trọn vẹn sứ vụ Tin Mừng nhà thừa sai đã dấn thân nơi vùng đất được sai đến.
Như cha Jean Baptiste Etcharren, cựu bề trên tổng quyền Hội Truyền giáo nước ngoài tại Paris – MEP đã nói, Cha Cadière trước hết là một con người của đức tin và chiều kích tâm linh là nền tảng cho mọi chọn lựa và hoạt động của ngài. Và, con người của đức tin và chiều kích tâm linh đó đã được đúc kết qua những  lời cuối cùng của cha được bộc lộ qua bài “Nâng tâm hồn lên” (Élévation!), - một tuyên xưng đức tin và như những lời tụng ca. Chính trên cơ sở đức tin và lòng nhiệt thành loan truyền Ơn Cứu Độ mà Cha Cadière đã thực hiện các công trình nghiên cứu của mình, và chính các công trình này lại hỗ trợ hiệu quả cho hoạt động truyền giáo của ngài.
  Trong Tông huấn Ecclesia in Asia, Đức Gioan phaolô II cũng đã nhấn mạnh rằng, Rao giảng Tin Mừng cho một nơi nào mà sứ giả Tin mừng không sống với văn hóa của nơi đó là một thảm họa, người bản xứ đón nhận Tin Mừng mà không sống tin Mừng theo văn hóa của mình là một thảm họa.
- Tiếp cận mô hình truyền giáo “Cadière”: Trong bài phát biểu của Đức Cha Vũ Duy Thống, đặc trách Ủy Ban Văn Hóa Hội Đồng Giám Mục Việt Nam tại Cuộc Hội Thảo trong phần khai mạc, Đức cha đã nhắc đến chân dung 3D (ba chiều) của cha Cadière : nhà truyền giáo, nhà nghiên cứu khoa học và con người hội nhập văn hóa. Truyền giáo cung cấp điều kiện cho khoa học và khoa học làm phong phú truyền giáo.
Và, trong tâm đó, đức giám mục Phao-lô Nguyễn Thái Hợp trong bài tham luận của ngài, ngài đã ngỏ lời mời gọi: Giáo hội Việt Nam nên tiếp tục dấn thân theo con đường hội nhập văn hóa mà Cha Cadière đã vạch ra, hay, như lời gợi ý của cha Jean Batiste Etcharren, “cách tri ân hay nhất với tiền nhân và người có công, là làm sống lại tinh thần của họ trong thời đại chúng ta”.
Cho nên, đối với Giáo hội Việt Nam trong bối cảnh hôm nay,
- Việc tìm hiểu văn hóa của người thời đại, nhất là của những thế hệ sắp tới là điều thiết yếu và thiết thực. Một linh mục Việt Nam nhận định: Thế giới ngày nay đề cao tự do, nên rất sợ những định chế có vẻ ép buộc của Giáo hội. Họ đề cao khoa học kỹ thuật thực nghiệm, nên rất sợ những tín điều mầu nhiệm của Giáo hội..., nhất là đối với thành phần giới trẻ Công giáo…nếu nhu cầu tâm linh của họ không được thỏa mãn, đương nhiên họ sẽ tự động đi tìm những tổ chức khác có khả năng thỏa mãn nhu cầu của họ hơn. Do đó, nên thay đổi cách nhìn cũng như cách trình bày Tin Mừng và sứ điệp Kitô giáo để chúng phù hợp hơn với thế hệ trẻ (với những ưu tư, khát vọng, thao thức, não trạng, tâm lý, khuynh hướng, quan niệm, cách suy nghĩ...). Người Kitô hữu Việt Nam cũng cần thay đổi cung cách sống đạo của mình để có sức thu hút anh em ngoài Kitô giáo và làm phát triển Giáo hội Việt Nam hơn.
Cần nắm bắt dấu chỉ thời đại.
- Bên cạnh đó, một cung cách, một thái độ sống đạo của mọi thành phần trong Giáo hội, nhất là các phẩm trật lãnh đạo trong Giáo hội cũng nên được xem lại.
Đức Phaolô VI đã mạnh mẽ khẳng định: “Người thời nay sẵn sàng nghe những nhân chứng hơn là những thầy dạy. Nếu họ nghe lời thầy dạy thì bởi vì, chính lời thầy dạy cũng là nhân chứng”.
Cần đến những tấm gương !
Cha Jean Baptiste Etcharren đã nói: “trong số những phẩm chất cần phải có đối với một nhà truyền giáo trẻ, phẩm chất chính yếu bao hàm tất cả những phẩm chất khác, đó là yêu mến nơi mình được sai đến. Đó cũng chính là điều kiện và là bí quyết cho hạnh phúc và sự triển nở của chính bản than vị thừa sai”.
Cần một tấm lòng !
Lm G. Đỗ Trung Thành, OP (daminhvn.net)


----------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------


Giáo Hội Và Cơ may  Sử Dụng Kỷ Thuật Số
Phỏng vấn ông Derrick De Kerckhove, 
chuyên viên xã hội học, giáo sư về truyền thông
tại Đại học Federico II Napoli, nam Italia
Trong các ngày 22-24/4/2010, Hội đồng Giám mục Italia đã tổ chức Đại hội Truyền thông lần thứ II về đề tài “Các chứng nhân kỹ thuật số. Các gương mặt và ngôn ngữ trong kỷ nguyên truyền thông giao thoa”. Trong số 1.300 tham dự viên đã có 20 yồng y, tổng giám mục, giám mục, cũng như hàng trăm linh mục, tu sĩ nam nữ đặc trách truyền thông và 250 ký giả của 180 tờ báo giáo phận. Đại hội Truyền thông lần thứ I đã được triệu tập hồi năm 2001 về đề tài “Parabole truyền thông”. Mục đích của Đại hội là củng cố dấn thân của Giáo hội Italia trong lĩnh vực truyền thông và sử dụng các kỹ thuật tân tiến cho việc rao giảng Tin Mừng. Trong số các thuyết trình viên cũng có giáo sư Derrick De Kerckhove.
Giáo sư De Kerckhove là nhà xã hội học nổi tiếng người Bỉ, nhưng có quốc tịch Canada, năm nay 66 tuổi. Là chuyên viên về truyền thông nổi tiếng thế giới, ông là Giám đốc của Chương trình McLuhan về Văn hoá Kỹ thuật, và hiện đang dạy môn Truyền thông tại Đại học Federico II, tỉnh Napoli, nam Italia, về “Các phương pháp và phân tích các nguồn trên mạng”, “Xã hội học của nền văn hoá kỹ thuật số”, “Xã hội học của nghệ thuật số”.
Giáo sư De Kerckhove cũng là tác giả của cuốn sách tựa đề “Da của văn hoá của sự thông minh nối kết”. Trong các năm 1983-1995, Giáo sư đã viết các bài khảo luận cho nguyệt san “Truyền thông” Italia. Hiện ông cũng là giáo sư tại Đại học Toronto Canada, và Tours, Pháp.
Sau đây, chúng tôi xin gửi tới quý vị và các bạn một số nhận định của giáo sư về Giáo Hội và cơ may sử dụng kỹ thuật số.
Hỏi: Thưa Giáo sư De Kerckhove, Giáo hội Công giáo đã luôn luôn có ý thức về không gian một cách hết sức mạnh mẽ. Cơ cấu của Giáo Hội dựa trên các giáo phận, là các đơn vị phân chia địa phương. Chúng ta có đang tiến tới một sự bổ túc giữa địa phận và không gian của kỹ thuật số hay không? Hay trong một nghĩa nào đó, thế giới kỹ thuật số sẽ thắng thế, ít nhất trong các vùng thành thị lớn, là các vùng di động và thay đổi?
Đáp: Tôi thành thật tin rằng sự bổ túc giữa vật chất và thế giới ảo, giữa sự hiện diện gần và sự hiện diện xa, sẽ luôn luôn cần thiết đối với mọi chiều kích của cuộc sống con người. Tôi không đồng ý với lý thuyết “duy thiên thần”, mặc dù nó do ông McLuhan đề nghị, theo đó sẽ xảy ra sự kiện vật chất biến mất, và con người sẽ trở về tình trạng sống của các thiên thần, có linh hồn nhưng không có thân xác. Đó là điều không đúng và đàng khác cũng không thể loại bỏ được thân xác.
Trong sự hỗn loạn lớn của thế giới truyền thông, của các mạng, các ngân hàng dữ kiện, dự phóng đem căn tính và cả hình ảnh của chúng ta - nếu không phải là toàn con người của chúng ta - đến khắp nơi, tất cả gắn liền với thân xác chúng ta, là điểm quy chiếu nền tảng. Dĩ nhiên, tương quan của con người đã bị “điện hoá” với không gian hầu như trở thành thần thiêng - con người trở thành trung tâm ở khắp mọi nơi và không có biến giới - tuy nhiên, nó không trở thành tinh thần tinh tuyền. Tôi quan niệm tính cách không gian của hệ thống Web như tính cách không gian của trí tuệ. Mạng lưới là không gian trí tuệ được trải dài, được chia sẻ, và có cường lực mênh mông, nhưng vẫn gắn liền với thân xác con người. Chính vì thế, trái với quan điểm của thời Phục Hưng, tôi gọi sự hiện diện của tôi trong thế giới này là “điểm hiện hữu” nhạy cảm duy nhất.
Hỏi: Thưa Giáo sư, người ta thường nói về trang Web như là một yếu tố đánh lạc hướng giáo dục, và dẫn đưa con người tới chỗ trốn chạy nội dung: con người ngày càng di động hơn, nhưng lại ít thích hợp hơn với sự chú ý và chiêm niệm. Tuy nhiên, với chương trình Web 2.0, hàng triệu người đã có thể bắt đầu viết lách mỗi ngày... Chúng ta lại không đang đứng trước một tiến trình duy nhất trong lịch sử, nếu không giúp trở vào nội tâm thì cũng giúp con người nếm hưởng các hoa trái trí thức hay sao? Và đây lại không phải là một ích lợi trí thức tích cực, trong khi với truyền hình, xi nê và rađio người ta lại không bị rơi vào việc hưởng ích lợi thụ động trong một nghĩa nào đó, có đúng vậy không, thưa Giáo sư?
Đáp: Tôi hoàn toàn đồng ý với nhận xét của quý vị về điểm này: nghĩa là hệ thống mạng và các địa chỉ Web là một tiến bộ trong lĩnh vực hiểu biết, trái ngược với nhiều điều người ta thường lặp đi lặp lại liên quan tới địa chỉ bách khoa Wikipedia, sự ngu dốt của “các thế hệ sinh ra trong thế giới kỹ thuật số”… Điện năng ở trong giai đoạn số, và trong hệ thống mạng của nó, trong giai đoạn sự hiểu biết của nó, và liên mạng là hệ thống thần kinh của nó. Chúng ta đã bước vào trong một giai đoạn hiểu biết sâu xa và cá nhân hoá, qua sự tương tác truyền thông đa diện. Và cũng đúng thật là chúng ta ngày càng viết nhiều hơn. Tôi còn kinh hoàng nhớ tới sự ghen tương của tôi với triết gia, nhà văn, nhà thơ Voltaire của Pháp, khi tôi nghiên cứu các bút tích của ông được thu thập trong 107 cuốn sách, mỗi cuốn dày 350 trang. Tôi nghĩ là mình sẽ không bao giờ viết được nhiều như vậy. Nhưng khi nhìn trên bàn viết của mình, tôi nhận thấy trong 2 năm qua tôi đã viết hơn 6.000 điện thư và đã đọc hơn 20.000 điện thư. Như thế thì mẫu tự đâu đã chết. Hoan hô mẫu tự!
Dĩ nhiên, có đúng thật là hệ thống liên mạng không mời gọi hay thúc đẩy con người đi sâu vào chính mình để suy xét, trái lại nó thúc đẩy con người hướng ngoại. Hình ảnh tìm thấy trên địa chỉ liên mạng Facebook, đối với nhiều người, có thể trở thành táo bạo trong việc định nghĩa căn cước riêng của họ hơn là điều họ vẫn nghĩ về mình. Căn tính được tạo dựng bên ngoài trí tuệ, trên màn hình vi tính. Giờ đây không còn phải là thời gian của “gnothi seauton - Hãy tự biết mình” của triết gia Platone nữa, mà là giai đoạn của việc “phani seauton - hãy tỏ lộ chính mình”.
Hỏi: Giáo sư đã nói tới “nền văn minh video Kitô”. Trong nghĩa nào chúng ta có thể nhận ra dấu vết Kitô trong cuộc cách mạng kỹ thuật số, đặc biệt là trong các trang Web như hiện nay, thưa Giáo sư?
Đáp: Trên bình diện này có 3 hiện tượng trong hệ thống liên mạng đã gây ấn tượng cho tôi: thứ nhất là các địa chỉ công cộng, thứ hai là địa chỉ của “cộng đoàn văn bút” và thứ ba là của các nghĩa trang trong Mạng. Cả ba đều lấy hứng từ Kitô giáo, cả khi hai loại đầu tiên đã khởi sự một cách châm biếm, vì thù nghịch với ý tưởng một linh mục giải tội qua một cái máy gọi của nghệ sĩ Greg Garwey, người Canada, gọi là “Máy giải tội tự động”. Nhưng địa chỉ trên mạng của ông đã gợi hứng cho nhiều sáng kiến khác trên Mạng và đã làm nảy sinh ra một hiện tượng nghiêm chỉnh, với hàng ngàn địa chỉ đủ loại khác để “xưng tội”. Cũng xảy ra sự kiện như thế đối với hiện tượng thứ ba là các nghĩa trang ảo trên Mạng: có hàng triệu địa chỉ như vậy liên quan tới sự hấp dẫn của một lễ nghi không nhất thiết gắn liền với đức tin Kitô.
Tuy nhiên, hiện tượng thứ hai này, thì trái lại, có tính cách tinh thần sâu xa và có nguồn hứng Kitô thực sự: đó là việc sử dụng Liên mạng để chia sẻ các tật bệnh, âu lo, các vấn đề gia đình hay các suy tư về các khía cạnh khác nhau của đức tin, như nhiều địa chỉ Blog đang làm. Các địa chỉ này trên Mạng khiến cho con người trở về với chiều kích của các cộng đoàn Kitô tiên khởi, trong đó các Kitô hữu chia sẻ mọi sự với nhau và cho nhau, yêu thương nâng đỡ tương trợ nhau, nhưng giờ đây là trên bình diện toàn cầu. Đây là một cơ may đối với tất cả mọi tôn giáo. Cả khi Giáo hội Công giáo xem ra còn chờ đợi vị Giáo hoàng của hệ thống liên mạng, như Đức Gioan Phaolô II đã từng là vị Giáo hoàng của hệ thống truyền hình.
Hỏi: Thưa Giáo sư De Kerckhove, trong số các thực tại do hệ thống Web làm nảy sinh ra như mạng lưới xã hội, các động cơ nghiên cúu, các địa chỉ Blog, điện thoại qua Mạng VoIP..., thực tại nào cách mạng nhất, nhưng chúng ta lại đang khinh thường các khả năng của nó?
Đáp: Chắc chắn mạng lưới xã hội chưa hết khiến cho chúng ta ngạc nhiên. Các sáng chế mới như Twitter do Hãng Obvious Corporation tỉnh San Francesco Hoa Kỳ sáng chế hồi năm 2006 chẳng hạn. Từ Twitter bắt nguồn từ động từ “tweet” có nghĩa hót líu lo. Twitter người hót líu lo là mạng lưới dịch vụ xã hội không mất tiền, và địa chỉ Blog nhỏ cống hiến cho người sử dụng một trang riêng trên mạng, có thể cập nhật với các sứ điệp dài khoảng 144 chữ. Các sáng chế như vậy nảy sinh từ số không, và chúng thay đổi phương thế chia sẻ cá nhân cũng như các phương thế tự vệ xã hội, chính trị và kinh tế.
Từ điển bách khoa trên Mạng Wikipedia cống hiến cho chúng ta kho tàng hiểu biết toàn cầu với sự tham dự của toàn thế giới. YouTube đặt để vào tay mọi người chúng ta một ngòi bút điện tử và trở thành Hãng Thông tấn Argus, là hãng thông tấn độc lập lớn nhất thế giới, cung cấp tin tức và các bài tường thuật cho chúng ta với biết bao nhiêu con mắt giúp nhìn thấy biết bao nhiêu vấn đề trên thế giới. Quyền lực của kỹ thuật số cộng với quyền lực của hệ thống Mạng thuộc loại ảo thuật, với các áp dụng tuyệt vời như ảo thuật thời Trung Cổ, và nó giải thích sự thành công của các loạt phim của Harry Potter. Nhưng phát minh cách mạng nhất của thời đại chúng ta không phải là bảng hiệu hiện diện trên trang Web hay nơi nào khác, mà là điện tín. Nó là kỹ thuật đầu tiên đã đăt để chung vận tốc của ánh sáng với sự phức tap của ngôn ngữ loài người. Mọi sự còn lại đã phát triển với cái luận lý của hệ thống.
(Avvenire 21-4-2010; Wikipedia)
------------------------
Linh Tiến Khải





------------------------------------------------------------------------------


Hội nghị các “blogger” tại Rôma kêu gọi Giáo Hội đừng sợ các cuộc tranh luận
TTCG (Rome, 3-5-2011, Zenit.org, Stéphane Lemessin) – Hôm thứ hai 2-5, tại Hội đồng Giáo hoàng về Văn hoá và về Truyền thông Xã hội đã tổ chức cuộc họp mặt lần đầu tiên giữa các viên chức của Toà Thánh với các người viết blog quy tụ về từ khắp nơi trên thế giới. Hội nghị mời gọi Giáo Hội bạo dạn hơn và đừng sợ các cuộc tranh luận.
Từ California, Đức, Ireland, Pháp, Thuỵ Sĩ, Anh, Áo và từ các vùng khác, 150 người viết blog đã quy tụ về Vatican. Họ tạo nên một cuộc gặp gỡ rất khác với các hội nghị thường thấy tại phòng “Via dell'Ospedale”, cách Vatican không xa; thật vậy, theo sắp xếp, tất cả người tham gia đã mở máy tính của họ, những ai không có thì sử dụng điện thoại di động để kết nối Internet. Và trong cuộc họp, các cuộc thảo luận bằng Facebook hay Twitter cũng được tiến hành... Cuộc họp mặt vừa thực tế vừa ảo này vì vậy còn cho phép 600 người viết blog khác, có và không có trong danh sách được mời vào cuộc họp mặt, cũng tham gia.
Cuộc họp này mong muốn mở rộng, như vị Chủ tịch Hội đồng Giáo hoàng về Truyền thông Xã hội, Đức TGM Maria Celli Claudi, nói khi khai mạc cuộc họp mặt, ngài nói rằng đây không phải là “một họp mặt của các người viết blog Công giáo, dù nhiều bạn lấy cảm hứng từ Tin Mừng, nhưng là một cuộc đối thoại tôn trọng sự thật”.
Cuộc thảo luận bàn tròn đầu tiên đưa ra tiếng nói của nhiều trong số những người viết blog, nhấn mạnh đến tầm quan trọng của cách thức truyền thông trên Internet. Thật vậy, thông qua các blog, đức tin có thể được truyền đạt; và các cuộc thảo luận giữa những người hiện diện đã diễn ra trên mạng.
Trưng dẫn những lời của Đức Gioan Phaolô II, Andres Beltramo mời gọi Giáo Hội đừng ngại mở những cuộc tranh luận như thế này. Matia Marasco thì đưa ra một bản kiến nghị, kêu gọi Giáo Hội “mạnh dạn hơn” trong lĩnh vực blog. Từng người trong 5 khách mời đầu tiên nhấn mạnh các khía cạnh truyền giáo của các blog.   
Cha Roderick Vonhögen nói rằng ngài khám phá một cách ngẫu nhiên sức mạnh và khả năng của bolg. Từ khi gửi các video lên Internet, ngài “trở thành một mục tử cho những người cần đến mình” và cho những ai nhìn thấy ngài trên mạng. Vị linh mục người Hà Lan, người đã cho đăng các bài tham luận bằng tiếng Anh của ngài trên mạng, so sánh các hoạt động mục vụ của mình trên mạng với việc thiết lập một cộng đoàn địa phương: “Chúng tôi xây dựng gia đình của Chúa Kitô, vì chúng tôi muốn tạo điều kiện dễ dàng cho tình bạn (...) Điều này giống như việc xây dựng một xứ đạo”.
Trong khi đó, Cha Federico Lombardi, Giám đốc Phòng Báo chí Toà Thánh, nói đến một trong những khía cạnh quan trọng của các blog đối với cộng đồng Kitô giáo: “Các người viết blog Công giáo là công luận trong Giáo Hội. Huấn quyền Công đồng đã dự kiến thực tại này, nhưng đã không phát triển được nhiều”. Với các blog, mà ngài theo dõi thường xuyên, ngài thấy bây giờ cần nêu lên công luận này.
Những người đặc trách truyền thông (của Giáo Hội) đã giúp các người viết blog đang có mặt hiểu hơn cách thức mà Vatican hiện diện trên Internet, và giúp họ thấy được sự nghèo nàn của các phương tiện phục vụ cho việc thông tin của Toà Thánh. Chính vì vậy mà không thể phát triển một hoạt động tương tác thật sự, thông qua các mạng xã hội hiện đại (Facebook, Twitter...)...
Cuộc họp này đã cho thấy một phần cơ cấu của Giáo Hội và giúp nhận thức được tầm quan trọng của các blog. Tuy chưa có gì là rõ ràng theo sau sáng kiến ​​này (vì không đủ thời gian - ND), nhưng niềm vui vì được gặp gỡ một cách thực tế và cụ thể đã tỏ lộ trên gương mặt của các blogger với tư cách là những người đối thoại với Vatican.
Tuy nhiên, có một điểm lớn thường được nêu lên trong các cuộc thảo luận, đó là sự ra đời của một loại hình mới của sự hiện diện mục vụ trên Internet, mà theo Cha Marco Sanavio, loại hình “web mục tử” là cần thiết trong thời đại ngày nay.
Một sứ mệnh được nêu lên nhiều lần trong hội thảo buổi chiều, do Jeanne-Beylot Francois trình bày, rằng “nếu Chúa Kitô rao giảng vào thời đại ngày nay, chắc hẳn Ngài không muốn lên núi hoặc vào trong một chiếc thuyền, nhưng Ngài hiện diện trên twitter hoặc mở một địa chỉ blog…”. Và điều này được thể hiện như một dấu hiện cam kết của các đại diện 150 người trong giới blog.
-----------------------------
Mai Trang

BÀI ĐĂNG PHỔ BIẾN